Thứ Sáu, 28 tháng 11, 2008

Tuổi Kim Lâu

TUỔI KIM LÂU

Dân gian ta thường có câu : “Lấy vợ xem tuổi đàn bà, làm nhà xem tuổi đàn ông”. “Xem tuổi” ở đây ngụ ý chỉ tuổi Kim Lâu. Lại có câu : Một, ba, sáu, tám Kim Lâu Làm nhà, cưới gả hàng đầu phải kiêng

Như vậy các tuổi có hàng đơn vị là 1, 3, 6, 8 đều là tuổi Kim Lâu. Có thể hiểu nôm na, đàn ông làm nhà, con gái đi lấy chồng nếu “phạm Kim Lâu” thì năm đó hãy tạm hoãn, đợi sang năm sau mới tiến hành.

Tuổi Kim Lâu được tính theo âm lịch, nghĩa là bằng tuổi dương lịch cộng thêm một. Các cụ ngày xưa chia Kim Lâu làm 4 loại :

- Những tuổi âm lịch có số hàng đơn vị là 1 phạm Kim Lâu đối với chính bản thân gia chủ, gọi tắt là Kim Thân. Nếu không kiêng, tránh thì gia chủ sẽ gặp rủi ro, tai họa như khẩu thiệt (vạ miệng), bệnh tật, đau ốm, dẫn đến mạng vong.

- Những tuổi âm lịch có số hàng đơn vị là 3 phạm Kim Lâu đối với người vợ, gọi tắt là Kim Thê. Nếu gia chủ không kiêng tránh thì người vợ sẽ vướng “hạn” khẩu thiệt, tật bệnh, sinh đẻ khó khăn, nguy hiểm tính mạng.

- Những tuổi âm lịch có số hàng đơn vị là 6 phạm Kim Lâu đối với con cái, gọi tắt là Kim Tử. Nếu gia chủ không kiêng tránh thì con cái có thể bị khẩu thiệt, quan phi (ra cửa quan vì chuyện thị phi), hung họa, mạng vong v.v...

- Những tuổi âm lịch có số hàng đơn vị là 8 phạm Kim Lâu với lục súc, gọi tắt là Kim Súc. Nếu không kiêng tránh thì chăn nuôi sẽ khó khăn, gia súc ốm, chết dẫn đến thiệt hại về kinh tế.

Trong sách “Thông thư” lý giải như sau : Lấy 24 phương vị gồm 4 quẻ, 8 thiên can và 12 địa chi, sắp xếp thành : phương Bắc gồm Nhâm– Tí – Quý ; Đông Bắc gồm Sửu – Cấn – Dần ; phương Đông gồm Giáp – Mão – ất ; Đông Nam gồm Thìn – Tốn – Tị ; phương Nam gồm Bính – Ngọ - Đinh ; Tây Nam gồm Mùi – Khôn – Thân ; phương Tây gồm Canh – Dậu – Tân và Tây Bắc gồm Tuất – Càn – Hợi.

Bắt đầu tính khởi 1 ở góc Tây Nam, 2 đến Tây, 3 đến Tây Bắc, 4 đến Bắc, 5 vào cung giữa (trung cung), 6 ở Đông Bắc, 7 ở Đông, 8 ở Đông Nam, 9 ở Nam, đến 10 lại về cung giữa rồi tiếp hàng đơn vị 1 ở hướng Tây Nam v.v... Tính như vậy thì luôn luôn ta thấy 1 – 3 – 6- 8 ở các phương, góc có Tứ Mộ (Thìn, Tuất, Sửu, Mùi) có Tứ Sinh (Dần, Thân, Tị, Hợi). Vừa có “Mộ”, lại vừa là “Sinh” nên gọi Kim Lâu, ẩn chứa nhiều hung nguy hơn cát tường nên cần phải kiêng tránh.

Ngoài cách tính trên của sách “Thông thư” còn có các cách tính khác của Kim Oanh Ký, Hà Tấn Phát, Thiên Lương, Thao Thao... Mỗi tác giả đều có những quan điểm và cách lý giải riêng, dẫn đến những kết quả khác nhau, không nhất thiết cứ 1, 3, 6, 8 đều phạm Kim Lâu cả.

Theo như sách ngày xưa các cụ dậy :Tuổi Kim lâu là tuổi làm nhà vào năm đó thì sẽ gây tai họa cho gia đình .Kim lâu lại được chia ra làm :Kim lâu Thân ,là nếu phạm phải sẽ gây tai họa cho bản thân người làm nhà;Kim lâu thê là phạm phải sẽ gây tai họa cho vợ.Kim lâu Tử là phạm phải có hại cho con cái;Kim lâu Lục súc nếu phạm phải sẽ gây nên việc thất bại trong việc chăn nuôi Gia súc,gia cầm.Lưu ý rằng tuổi phạm Kim lâu chỉ tính cho đàn ông,không có liên quan đến đàn bà.Làm nhà cũng chỉ tính tuổi đàn ông mà không tính đến tuổi đàn bà ?
Cách tính :Lấy tuổi âm lịch chia cho 9.Nếu dư 1 là Kim lâu Thân.Dư 3 là Kim lâu Thê.Dư 6 là Kim lâu Tử.Dư 8 là Kim lâu Lục súc.

Nói thêm một chút về Kim lâu:

Ngoài ra còn cách tính khác về Kim lâu là dựa theo nguyên tắc hoạt động của Cửu tinh phối hợp với Bát cung (8 cung) và tính chất sinh, vượng, mộ, tuyệt của địa chi mà một quái (quẻ/cung) đó nằm cùng.

Câu quyết:
“Kim lâu bàn khởi tại Khôn cung Thường phi ngũ, thập tại trung cung Khảm, Ly, Chấn, Đoài vi tứ cát Ngộ Càn Khôn, Cấn Tốn giai hung”

(Đại loại là Kim lâu bắt đầu tính từ Khôn. Số 5 và số 10 ở trung cung- giữa. Quẻ khảm, ly, chấn, đoài là tốt. Gặp càn khôn, cấn, tốn thì hung).

Cụ thể: Kim lâu khởi tại Khôn cung, 2 tại Dậu, 3 tại Càn, 4 tại Tý, 5 tại Trung cung, 6 tại Cấn, 7 tại Mão, 8 tại Tốn, 9 tại Ngọ, 10 tại Trung cung, 11 lại tại Khôn… Trong đó 5 và 10 nằm tại Trung cung.

Càn ngụ tại Hợi, Khôn ngụ tại Thân, Cấn ngụ tại Dần, Tốn ngụ tại Tỵ. Mà 4 chi Dần, Thân, Tỵ, Hợi vừa là đất sinh, vừa là chỗ tuyệt (chết) của ngũ hành, do đó mà xấu, cần kiêng kị. Nguồn gốc của Kim lâu là như vậy.

TẠI SAO GỌI LÀ KIM LÂU

Tại sao lại gọi Kim lâu, vậy ý nghĩa của từ Kim lâu là gì?

Theo sách viết :

Thủy từ đường tế tới nay _ quê tại tràng anh phủ - thạch uy huyện - phú uy xã bố tên là nguyễn hiệu thế , mẹ là phạm tị nha . Năm bính dần ngày 01 tháng 8 sinh một con trai tên Lục hiệu kim lâu. thân dài 7 thước tay dài 2 thước , ngọc hành dài 4 thước hình dung rất cổ quái năm 18 tuổi ở nhà chuyên trộm cắp bị bố đuổi nên rừng hắn làm chúa tể lâu la . một đêm bị phong ba bão táp , hắn nằm ở gốc cây vạn trực mộc bị hổ ăn thịt , hồn y biến vào cây đằng xà phách , rồi xuống thủy cung , y hầu hạ bà Thủy tinh công chúa . hắn ngoan ngoãn - chúa phong cho y làm thần kim lâu từ đó đêm đêm y bay muôn nhà , ai phạm các tuổi 1.3.6.8 thì hại người hại của

Đệ nhất ở càn cung thân bị sát có phúc thì ốm . kém phúc thì chết
Đệ nhị ở Khôn cung vật bị sát , không thì ốm
Đệ tam ở cấn cung thê bị sát đẳng niên không hạn tất chết
Đệ tứ ở Tốn cung sát lục súc , hao tài của đẳng niên hữu hạn

từ 19 tuổi trở nên mới có trạch làm nhà
kim lâu tam phạm tối kỵ tạo trạch

- người sinh năm : thân , tý , thìn
+ năm thìn sát thân
+ năm mão sát vợ
+ năm tỵ sát con

- người sinh năm : hợi , mão , mùi
+ năm tuất sát thân
+ năm ngọ sát vợ
+ năm tỵ sát con

- người sinh năm tỵ dậu sửu
+năm thìn sát thân
+ năm tỵ sát con
+ năm mão sát vợ


Không có nhận xét nào: